Viêm gan B - Nó là gì
Virus viêm gan B ( HBV ) là loại virus viêm gan phổ biến nhất ở người ở Singapore. Nhiễm HBV và các di chứng mãn tính của nó là những vấn đề sức khỏe lớn trên toàn thế giới. Có khoảng 300 triệu người mang HBV mạn tính trên thế giới, trong đó 75% được tìm thấy ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Người ta ước tính rằng khoảng 25 đến 50 phần trăm những người mang mầm bệnh này có thể chết sớm, do viêm gan mãn tính và suy gan (xơ gan) hoặc phát triển ung thư gan.
6% dân số Singapore mang mầm bệnh viêm gan B. Hầu hết nhiễm trùng viêm gan B xảy ra trong khi sinh và trong thời thơ ấu. Những bệnh nhiễm trùng này thường không có triệu chứng. Những người mang mầm bệnh này tồn tại khỏe mạnh trong thời gian dài và được phát hiện tình cờ trong quá trình hiến máu, sàng lọc sức khỏe hoặc sàng lọc trước khi tiêm chủng. Trong khi số ca viêm gan B cấp tính đã giảm trong những năm qua, phần lớn là nhờ tiêm chủng phổ cập và sàng lọc người hiến máu, các bác sĩ vẫn phải đối mặt với các vấn đề về viêm gan mãn tính, xơ gan và ung thư.
Viêm gan B lây truyền như thế nào và ai có nguy cơ mắc bệnh cao hơn?
Lây truyền qua các chất tiết của cơ thể như máu, tinh dịch, nước bọt.
Con của người mẹ mang mầm bệnh viêm gan B bị nhiễm bệnh khi mới sinh hoặc ngay sau khi sinh.
Sự lây truyền ở thời thơ ấu có thể xảy ra thông qua các dụng cụ dùng chung như bàn chải đánh răng và dao cạo râu.
Nhiễm viêm gan B có thể lây truyền qua truyền máu nếu người hiến máu không được sàng lọc nhiễm trùng đúng cách.
Nhiễm HBV cũng có thể lây truyền qua châm cứu, xăm mình, xỏ lỗ tai, làm móng tay và điều trị nha khoa nếu sử dụng dụng cụ không vô trùng.
Nhân viên y tế như bác sĩ, nha sĩ và y tá có nguy cơ bị chấn thương do chích ngón tay cũng là nguyên nhân truyền nhiễm HBV.
Quan hệ tình dục không được bảo vệ thúc đẩy lây truyền HBV. Vì vậy, những người có lối sống phóng túng như gái mại dâm, người đồng tính có nguy cơ nhiễm HBV cao hơn.
Virus viêm gan B ở trẻ sơ sinh và người lớn
Một em bé bị nhiễm viêm gan B có biểu hiện bệnh khác với một em bé bị nhiễm bệnh ở tuổi trưởng thành. Nói chung, nhiễm trùng lây truyền khi sinh (từ mẹ sang con) không biểu hiện bất kỳ triệu chứng nào. Sau khi bị nhiễm trùng như vậy, em bé có 90% nguy cơ trở thành người mang mầm bệnh viêm gan B vì chúng không thể loại bỏ vi-rút khỏi cơ thể.
Mặt khác, một người mắc bệnh khi trưởng thành sẽ biểu hiện các triệu chứng "viêm gan cấp tính" (viêm gan B cấp tính). Trong số những bệnh nhân này, 1% phát triển một diễn biến lâm sàng rất nghiêm trọng được gọi là viêm gan siêu vi B bùng phát. Những bệnh nhân này diễn biến xấu rất nhanh trong quá trình diễn biến lâm sàng của bệnh và có thể dẫn đến suy gan hoặc thậm chí tử vong. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những phương thức điều trị mới hơn như ghép gan.
Viêm gan B - Triệu chứng
Các triệu chứng của viêm gan B cấp tính bao gồm:
Vàng da và 'lòng trắng' của nhãn cầu (màng cứng) được gọi là vàng da
Đau khớp
Phát ban có thể gây ngứa
Sốt
Đau vùng bụng trên bên phải
Nước tiểu có màu trà đậm
Buồn nôn, chán ăn và nôn mửa
Điều trị trong giai đoạn cấp tính của bệnh về cơ bản là làm giảm các triệu chứng như ngứa, buồn nôn và nôn. Nói chung, những bệnh nhân có triệu chứng nặng hoặc vàng da sâu nên nhập viện để theo dõi vì những hậu quả nghiêm trọng tiềm ẩn (viêm gan tối cấp) có thể gây tử vong, mặc dù hiếm khi xảy ra. Điều này cho phép tiến hành can thiệp nhanh chóng, có thể cứu sống nếu cần thiết. Bệnh nhân được khuyên nên nghỉ ngơi tại giường, tránh uống rượu và các phương pháp điều trị truyền thống của Trung Quốc vì có thể làm trầm trọng thêm tình trạng của bệnh nhân.
Các giai đoạn khác nhau của bệnh viêm gan B mãn tính
Người mang mầm bệnh viêm gan B mãn tính trải qua 3 giai đoạn, đặc biệt nếu nhiễm trùng mắc phải khi mới sinh. Đây là kịch bản thông thường giữa các nhà mạng ở Singapore:
Giai đoạn nhân lên của virus (dung nạp miễn dịch) cao thường thấy ở những bệnh nhân dưới 20 tuổi. Virus nhân lên nhanh chóng nhưng bệnh nhân khỏe mạnh và không có triệu chứng. Xét nghiệm máu và mẫu gan cho thấy tình trạng viêm gan ở mức tối thiểu.
Giai đoạn sao chép virus thấp (loại bỏ miễn dịch) xảy ra ở bệnh nhân từ 20 đến 40 tuổi. Trong giai đoạn này, hệ thống miễn dịch của cơ thể cố gắng tự loại bỏ virus viêm gan B và điều này được phản ánh bằng các xét nghiệm máu bất thường cho thấy tình trạng viêm gan đang hoạt động. Người vận chuyển có thể phàn nàn về tình trạng thờ ơ. Đôi khi, nếu giai đoạn này xảy ra ở bệnh nhân lớn tuổi, đặc biệt nếu trên 60 tuổi, diễn biến lâm sàng sẽ nghiêm trọng hơn và có thể gây rối loạn chức năng gan nặng và tử vong.
Giai đoạn không tái tạo (nhiễm trùng tiềm ẩn) xảy ra ở những người mang mầm bệnh trên 40 tuổi. Giai đoạn này được đặc trưng bởi sự hiện diện liên tục của virus viêm gan B với tốc độ nhân lên thấp. Tuy nhiên, có thể có bằng chứng về tổn thương gan mà sau này tiến triển thành ung thư gan. Bệnh nhân trong giai đoạn cuối này có thể lần đầu tiên bị sưng chân và bụng, sa sút tinh thần tiến triển và nôn mửa hoặc đi ngoài ra máu trong phân.
Viêm gan B – Phòng ngừa thế nào?
Viêm gan B được phòng ngừa tốt nhất bằng tiêm chủng. Những nhóm sau đây có nguy cơ mắc bệnh viêm gan B cao nhất nên được tiêm phòng:
Những người cần truyền máu và các sản phẩm máu nhiều lần
Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch tự nhiên hoặc mắc phải, ví dụ như bệnh nhân HIV hoặc bệnh nhân ung thư.
Bệnh nhân suy thận cần chạy thận nhân tạo.
Nhân viên y tế.
Người tiêm chích ma túy, người đồng tính luyến ái và gái mại dâm
Những người sống ở khu vực có tỷ lệ mắc bệnh viêm gan B mãn tính cao, ví dụ như Đông Nam Á.
Con của những phụ nữ mang mầm bệnh viêm gan B.
Vợ chồng và những người có quan hệ tình dục khác với người mang bệnh viêm gan B.
Nhân viên phòng thí nghiệm xử lý mẫu máu hoặc huyết thanh.
Tác dụng phụ của vắc xin rất hiếm và bao gồm đau nhức cục bộ tại chỗ tiêm, sốt nhẹ, khó chịu nhưng rất hiếm khi có thể gây sưng hạch (tuyến ở cổ, háng, nách) và các bất thường của hệ thần kinh.
Vắc-xin được tiêm vào thời điểm 0,1 và 6 tháng. Tuy nhiên, trước khi tiêm vắc-xin, người ta nên tự kiểm tra tình trạng miễn dịch. Chỉ những người không có miễn dịch với viêm gan B và không phải người mang mầm bệnh mới nên chủng ngừa.
Viêm gan B - Điều trị
Mặc dù chúng ta kỳ vọng số lượng người mang mầm bệnh viêm gan B sẽ giảm theo thời gian, phần lớn là do các nỗ lực sàng lọc và tiêm chủng rộng rãi, nhưng vẫn tồn tại một tỷ lệ đáng kể dân số của chúng ta là người mang mầm bệnh. Việc điều trị những người mang mầm bệnh này bao gồm:
Chẩn đoán và đánh giá
Liệu pháp hỗ trợ
Giám sát ung thư gan
I) Chẩn đoán và đánh giá
Xét nghiệm máu, siêu âm gan và lấy mẫu mô gan (sinh thiết gan) được sử dụng để đánh giá mức độ nghiêm trọng và giai đoạn của bệnh. Ở những bệnh nhân phù hợp, có thể tiến hành điều trị thích hợp, ví dụ như interferon.
I) Lời khuyên chung
Người mang mầm bệnh nên tránh hiến máu, các sản phẩm từ máu, nội tạng và tinh trùng.
Người mang mầm bệnh nên thông báo cho bác sĩ, nha sĩ hoặc bác sĩ phẫu thuật lấy máu (nhân viên y tế lấy máu bệnh nhân) về tình trạng viêm gan B của mình.
Những người tiếp xúc trong gia đình/bạn tình nên được sàng lọc và chủng ngừa viêm gan B nếu họ chưa được miễn dịch.
Người vận chuyển không được dùng chung bàn chải đánh răng/thiết bị cạo râu của mình.
Người phụ nữ mang mầm bệnh sinh con nên tiêm chủng cho con mình khi sinh.
Chế độ ăn uống: Nói chung nên khuyến nghị một chế độ ăn uống dinh dưỡng bình thường cho những người mang mầm bệnh khỏe mạnh. Tuy nhiên, một khi bệnh nhân có dấu hiệu xơ gan/suy gan thì cần phải hạn chế uống nước và muối.
Tập thể dục: Một chương trình tập thể dục thường xuyên có lợi cho những người mang mầm bệnh không có triệu chứng nhưng bệnh nhân bị suy gan nặng nên tránh chạy bộ vất vả và nâng vật nặng.
Ma túy và rượu: nên tránh các loại thuốc có khả năng gây hại cho gan nếu có thể. Người mang bệnh viêm gan B không nên uống rượu với số lượng quá nhiều. Phải cẩn thận khi tự dùng thuốc. Nếu nghi ngờ, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ.
II) Liệu pháp hỗ trợ
Mục đích của liệu pháp cụ thể là giảm khả năng lây nhiễm, ngăn chặn sự tiến triển của bệnh và cuối cùng là ngăn ngừa các biến chứng như xơ gan ('suy gan xơ cứng') và ung thư. Về cơ bản, đây là 2 nhóm thuốc được các chuyên gia về gan sử dụng, đó là:
Những thuốc tăng cường hệ thống miễn dịch để loại bỏ virus viêm gan B, ví dụ như alpha-interferon (xem Điều trị viêm gan C để biết thêm chi tiết về alpha-inteferon) và alpha-thymosin.
Những thuốc ngăn chặn sự nhân lên của virus (tác nhân chống vi-rút) như famcyclovir hoặc lamivudine.
Chỉ alpha-interferon được đăng ký, số còn lại đang được thử nghiệm tại Bệnh viện Đa khoa Singapore (SGH). Người mang mầm bệnh viêm gan B thích hợp được điều trị bằng alpha-interferon. (Để tìm hiểu thêm về alpha-inteferon, xem Điều trị viêm gan C). Các thử nghiệm lâm sàng sử dụng alpha-thymosin, famcyclovir, lamivudine đang được tiến hành tại SGH. Tỷ lệ thành công hiện nay trong điều trị viêm gan B mạn tính là 30 - 40% khi sử dụng alpha-interferon. Interferon đắt tiền và có tác dụng phụ.
III) Giám sát người mang mầm bệnh viêm gan B
Người mang bệnh viêm gan B nên được theo dõi thường xuyên tùy theo giai đoạn của bệnh. Bên cạnh việc theo dõi hoạt động hoặc tiến triển của bệnh, bệnh nhân còn được sàng lọc ung thư gan. Nguy cơ được ước tính là cao hơn 200 lần ở những người mang mầm bệnh viêm gan B so với những người không mang mầm bệnh. Trong những lần thăm khám như vậy, ngoài khám lâm sàng, bệnh nhân còn được xét nghiệm máu bao gồm nồng độ alpha-fetoprotein. Alpha-fetoprotein là chất đánh dấu khối u cho bệnh ung thư gan. Siêu âm gan thường được thực hiện 6 - 12 tháng một lần tùy theo giai đoạn bệnh. Những biện pháp này đảm bảo rằng nếu phát hiện ung thư thì khả năng phát hiện sớm và chữa khỏi sẽ cao hơn đáng kể.